Phân loại câu đối Câu đối

Câu đối Trung Quốc

Câu đối và hoành phi trước 1 miếu Trung HoaCâu đối theo hình vẽ

Người Trung Quốc phân loại câu đối theo cách dùng và đặc điểm nghệ thuật:

Phân loại theo cách dùng

  • Xuân liên (春聯): Câu đối xuân, chuyên dùng vào dịp Tết, gắn ở cửa.
  • Doanh liên (楹聯): Câu đối treo ở cột trụ, dùng trong nhà, cơ quan, cung điện của vua và những nơi cổ kính.
  • Hạ liên (賀聯): Câu đối chúc mừng, thường được dùng để chúc thọ, chúc sinh nhật, hôn giá, thăng quan tiến chức, có con, khai nghiệp v.v.
  • Vãn liên (挽聯): Câu đối than vãn, dùng trong lúc ai điệu tử vong.
  • Tặng liên (贈聯): Dùng để tán thán, đề cao hoặc khuyến khích người khác.
  • Trung đường liên (中堂聯): Câu đối dùng để treo ở những khách đường lớn, chỗ nhiều người lưu ý, và được phối hợp với bút hoạch (thư pháp).

Phân loại theo đặc điểm nghệ thuật

  • Điệp tự liên (疊字聯): Một chữ xuất hiện liên tục.
  • Phức tự liên (複字聯): Hai vế có chữ giống nhau nhưng không xuất hiện một cách trùng phức liên tục.
  • Đỉnh châm liên (頂針聯): Chữ nằm phần đuôi của câu đầu lại là chữ đầu của câu sau.
  • Khảm tự liên (嵌字聯): Bao gồm số, phương vị, tiết khí, niên hiệu, họ người, nhân danh, địa danh, vật danh (ví như tên thuốc) v.v.
  • Xích (sách) tự liên (拆字聯): Mỗi hợp thể tự bên trong câu đối tách thành bao nhiêu chữ đơn thể, có người phân ra tinh tế hơn nữa là mở chữ ra (xích tự 拆字), hợp chữ lại (hợp tự 合字), tách chữ ra (tích tự 析字) v.v.
  • Âm vận liên (音韻聯): Bao gồm đồng âm dị tự, đồng tự dị âm cùng với điệp vận.
  • Hài thú liên (諧趣聯): Hàm dung ý nghĩa khôi hài, ẩn kín.
  • Vô tình đối (無情對): Ý nghĩa trên dưới không tương quan một mảy may nào, có chỉnh những chữ, từ. Phần lớn Vô tình đối này ít thấy ý vị, hoàn toàn có thể quy nhập vào Hài thú liên bên trên.
  • Hồi văn liên (回文聯): Đọc xuôi (thuận độc 順讀) hay đọc ngược (đảo độc 倒讀) ý tứ hoàn toàn như nhau.

Câu đối Việt Nam

Một câu đối Tết tiếng Việt, viết theo lối thư pháp chữ Việt, tại Đường hoa Nguyễn Huệ 2009: "Tân niên hạnh phúc bình an tiến / Xuân nhật vinh hoa phú quý lai"Câu đối khắc trên ván cẩn vỏ ốc, dùng treo hai bên tủ thờ

Câu đối Việt Nam được Dương Quảng Hàm phân loại theo ý nghĩa, gồm các loại sau:

  • Câu đối mừng: làm để tặng người khác trong những dịp vui mừng như: mừng thọ, mừng thi đỗ, mừng đám cưới, mừng nhà mới...Nhất cận thị, nhị cận giang, thử địa khả phong giai tị ốc.Sống ở làng, sang ở nước, mừng ông nay lại vểnh râu tôm(Nguyễn Khuyến, viết mừng một chánh tổng trước bị cách chức, sau được phục sự và làm nhà mới.)
  • Câu đối phúng: làm để viếng người chết.Nhà chỉn nghèo thay, nhờ được bà hay lam hay làm, thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng,tất tưởi chân nam đá chân chiêu, ví tớ đỡ đần trong mọi việcBà đi đâu vợi mấy, để cho lão vất vơ vất vưởng, búi tóc củ hành, buông quần lá toạ,gật gù tay đũa chạm tay chén, cùng ai kể lể chuyện trăm năm.(Nguyễn Khuyến: câu đối khóc vợ)
  • Câu đối Tết: làm để dán nhà, cửa, đền, chùa...về dịp Tết Nguyên Đán.Chiều ba mươi, nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng Bần ra cửa.Sáng mồng một, rượu say tuý luý, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà.(Nguyễn Công Trứ, câu đối làm vào dịp tết lúc còn hàn vi.)Tết đến không tiền vui chi Tết / Xuân về kết gạo đón chi Xuân.(Tác giả, câu đối làm vào dịp tết lúc còn hàn vi.)
  • Câu đối thờ: là những câu tán tụng công đức tổ tiên hoặc thần thánh làm để dán hoặc treo những chỗ thờ.Tuế hữu tứ thời xuân tại thủ.Nhân ư bách hạnh hiếu vi tiên.(Dịch nghĩa: Năm có bốn mùa, mở đầu bằng mùa xuân. Người ta có trăm tính nhưng tính hiếu thảo là cần trước hết) hoặc:Mở rộng phương Tiên, công tế thế cao bằng Thái lĩnhSống nhờ của Phật, ơn cứu người rộng tựa Cẩm Giang(Câu đối thờ Tuệ Tĩnh ở đền Bia)Tùng thanh, trúc thanh, chung khánh thanh, thanh thanh tự tại.Sơn sắc, thủy sắc, yên hà sắc, sắc sắc giai không.(Câu đối khắc ở chùa Diệu Đức, Huế).
  • Câu đối tự thuật: là những câu kể ý chí, sự nghiệp của mình và thường dán ở những chỗ ngồi chơi.Chị em ơi! ba mươi sáu tuổi rồi, khắp đông, tây, nam, bắc bốn phương trời, đâu cũng lừng danh công tử xác.Trời đất nhẻ! gắng một phen này nữa, xếp cung, kiếm, cầm, thư vào một gánh, làm cho nổi tiếng trượng phu kềnh(Nguyễn Công Trứ, câu đối tự thuật)
  • Câu đối đề tặng: là những câu đối làm ra để đề vào chỗ nào đó hoặc tặng cho người khác.Nếp giàu quen thói kình khơi, con cháu nương nhờ vì ấmViệc nước ra tay chuyên bát, bắc nam đâu đấy lại hàng(Lê Thánh Tông, câu đối đề ở một hàng bán giàu (trầu) nước)
  • Câu đối tức cảnh: là những câu tả ngay cảnh trước mắt.Giơ tay với thử trời cao thấpXoạc cẳng đo xem đất ngắn dài(Hồ Xuân Hương, vịnh cảnh trượt chân, ngã xoạc cẳng)
  • Câu đối chiết tự (chiết: bẻ gãy, phân tách; tự: chữ): là những câu do sự tách chữ Hán hoặc chữ Nôm ra từng nét hoặc từng phần mà đặt thành câu.Tự (字) là chữ, cất giằng đầu, chữ tử (子) là con, con ai con nấy?Vu (于) là chưng, bỏ ngang lưng, chữ đinh (丁) là đứa, đứa nào đứa này?
  • Câu đối trào phúng: là những câu làm để chế diễu, châm chích một người nào đó.Cung kiếm ra tay, thiên hạ đổ dồn hai mắt lại.Rồng mây gặp hội, anh hùng chỉ có một ngươi thôi(Câu đối tặng một người chột mắt mới đỗ khoa thi võ)
  • Câu đối tập cú: là những câu lấy chữ sẵn ở trong sách hoặc ở tục ngữ, ca dao.Gái có chồng như rồng có vây, gái không chồng như cối xay không ngõng.Con có cha như nhà có nóc, con không cha như nòng nọc đứt đuôi.
  • Câu đối thách (đối hay đố): người ta còn nghĩ ra những câu đối oái ăm, cầu kỳ rồi người ta tự đối lấy hoặc thách người khác đối. Lối đối này thường sử dụng nghệ thuật chơi chữ, đồng âm dị nghĩa...Con cóc leo cây vọng cách, nó rơi xuống cọc, nó cạch đến giàCon công đi qua chùa kênh, nó nghe tiếng cồngkềnh cổ lại(Câu đối có bốn chữ: cóc cách cọc cạch đối với bốn chữ công kênh cồng kềnh)

Có những vế câu đối rất khó đối như:

  • Cha con thầy thuốc về quê, gánh một gánh hồi hương, phụ tử.Vế này khó đối vì hồi hương (cũng có nghĩa "về quê") và phụ tử (cũng có nghĩa "cha con") đồng thời lại là tên gọi các vị thuốc.
  • Vào vụ đông trường nam bón phân bắc trồng khoai tây, Sang xuân hạ quyết tâm thu hàng tấn củ.Vế này cũng khó đối vì đông, tây, nam, bắc (chỉ hướng địa lý) và xuân, hạ, thu, đông (chỉ các mùa ở Việt Nam)
  • Da trắng vỗ bì bạchVế đối này của Đoàn Thị Điểm, hiện nay, có khá nhiều người đối nhưng chưa chỉnh, câu đối đã được đăng ở quyển Thế giới mới được coi là tạm ổn nhất. "Sáng sớm mùa đông, qua cửa phía đông, đến chợ người đông, mua cục thịt đông"